Các đại biểu nhất trí với sự cần thiết ban hành Luật trên cơ sở chủ yếu là hợp nhất nội dung của Luật An ninh mạng năm 2018 và Luật An toàn thông tin mạng năm 2015. Việc ban hành Luật nhằm kịp thời thể chế các đường lối, quan điểm chỉ đạo của Đảng; khắc phục chồng chéo, mâu thuẫn, phân định thiếu rõ ràng về thẩm quyền, chức năng giữa Luật An ninh mạng và Luật An toàn thông tin mạng hiện hành; đồng thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong bối cảnh chuyển đổi số sâu rộng và tình hình tấn công mạng, tội phạm mạng xuyên biên giới diễn biến phức tạp.
Bổ sung vai trò, trách nhiệm của Bộ Quốc phòng trong công tác quản lý thông tin mạng và an ninh quốc gia
Tham gia thảo luận, đại biểu Bế Minh Đức, Tỉnh ủy viên, Phó trưởng Đoàn chuyên trách Đoàn ĐBQH tỉnh nhận thấy, dự thảo Luật đã bổ sung một số quy định về những vấn đề cấp bách đang phát sinh, có tác động lớn trong đời sống xã hội, nhất là giai đoạn phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ như thời gian vừa qua và xu hướng trong thời gian tới.
Để bảo đảm tính đồng bộ trong công tác quản lý, triển khai thực hiện nhiệm vụ an toàn, an ninh mạng trong giai đoạn khoa học công nghệ phát triển nhanh, phức tạp như hiện nay, đại biểu Bế Minh Đức đề nghị rà soát, bổ sung vai trò, trách nhiệm của Bộ Quốc phòng trong công tác quản lý thông tin mạng và an ninh quốc gia cho đầy đủ hơn. Cụ thể, tại Khoản 2, Khoản 3 của Điều 15, đề nghị thay thế, bổ sung cụm từ “hệ thống thông tin quân sự” bằng cụm từ là “hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng”. Đồng thời, điều chỉnh các khoản 5 Điều 18, khoản 4 Điều 22, khoản 5 Điều 23, Điều 24 cho phù hợp với vai trò trách nhiệm quản lý của Bộ Quốc phòng như nội dung vừa nêu trên.
Đại biểu Bế Minh Đức cho rằng, việc điều chỉnh bổ sung như trên không làm mở rộng phạm vi cũng như thẩm quyền của Bộ Quốc phòng, mà để phù hợp và thống nhất với các quy định hiện hành và trách nhiệm, thẩm quyền của Bộ Quốc phòng hiện đang thực hiện.
Tại khoản 2, khoản 3 Điều 15 của dự thảo Luật, đại biểu đề nghị bổ sung trách nhiệm của Bộ Quốc phòng trong công tác phối hợp với Bộ Công an và các cơ quan liên quan đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia, nhất là hệ thống thông tin quan trọng an ninh quốc gia thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng. Đồng thời, cần thiết bổ sung trách nhiệm của Bộ Quốc phòng trong thực hiện vai trò giám sát an ninh như quy định tại khoản 3 Điều 14 Luật An ninh mạng năm 2015 đã thực hiện. Thực tế, những năm qua, Bộ Quốc phòng và Bộ Công an cũng thường xuyên có sự phối hợp tốt trong việc quản lý, thực hiện các nhiệm vụ an toàn an ninh quốc gia.
Bên cạnh đó, tại Điều 16, đại biểu Bế Minh Đức đề nghị xem xét, bổ sung thêm một khoản quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Quốc phòng nhằm phù hợp với khoản 2 Điều 49 của dự thảo Luật. Cụ thể, đề nghị bổ sung khoản 5 Điều này quy định lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng thuộc Bộ Quốc phòng tiến hành kiểm tra an ninh mạng đối với hệ thống thông tin của cơ quan, tổ chức thuộc phạm vi quản lý trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này. “Việc bổ sung này không làm chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ hay thẩm quyền của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, mà theo phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng để thực hiện việc kiểm tra an ninh mạng đối với hệ thống cơ quan, tổ chức”, đại biểu nêu quan điểm.
Quy định rõ trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan chức năng để bảo đảm an ninh thông tin và an ninh dữ liệu
Quan tâm về phân loại thông tin (Điều 27), các đại biểu cho rằng, dự thảo Luật hiện chưa quy định rõ loại thông tin được phân loại, và chưa gắn với trách nhiệm pháp lý của các chủ thể liên quan. Các đại biểu nhận thấy, đây là vấn đề mấu chốt vì “phân loại thông tin” là cơ sở để xác định quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân, cơ quan quản lý nhà nước trong bảo vệ an ninh mạng.
“Trong hệ thống pháp luật khác như: Luật Bảo vệ bí mật nhà nước, Luật Dữ liệu và Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân đều đã có quy định liên quan đến “phân loại thông tin”, “phân loại dữ liệu”. Do vậy, nếu tiếp tục giữ Điều 27 trong dự thảo này mà không quy định rõ ràng phạm vi, sẽ dẫn đến trùng lặp, xung đột và khó áp dụng trên thực tế, đặc biệt trong các lĩnh vực tài chính, y tế, giáo dục, hoặc dữ liệu hành chính công”, đại biểu nêu rõ.
Do đó, các đại biểu đề nghị cần phân loại cụ thể các nhóm thông tin trên không gian mạng: thông tin công cộng, thông tin hạn chế truy cập, thông tin bí mật nhà nước, thông tin cá nhân và thông tin dữ liệu doanh nghiệp. Trường hợp không thể xác định được phạm vi độc lập, đại biểu cho rằng, nên cân nhắc bỏ Điều 27, giao Chính phủ quy định cụ thể việc phân loại và bảo vệ thông tin mạng trên cơ sở Luật Dữ liệu và Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân.
Về bảo vệ an ninh thông tin và an ninh dữ liệu (Điều 31, Điều 32), các đại biểu thống nhất cao với việc Báo cáo thẩm tra đã nhận định: Hai nội dung này có sự giao thoa, khó tách bạch trong thực tế, dễ dẫn đến hiểu nhầm về trách nhiệm giữa các cơ quan, đặc biệt giữa Bộ Công an và Bộ Khoa học và Công nghệ.
Vì vậy, các đại biểu đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc, nghiên cứu gộp Điều 31 và Điều 32 thành một điều thống nhất để bảo đảm an ninh thông tin và an ninh dữ liệu, quy định rõ trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan chức năng. Cụ thể là: Quy định nguyên tắc “một đầu mối quản lý - một trách nhiệm chính” để rõ ràng trong quản lý hành chính và tăng hiệu quả bảo vệ an ninh mạng. Đồng thời, bổ sung điều khoản chuyển tiếp, để tránh xáo trộn trong khi các luật liên quan (như Luật Dữ liệu) đang trong quá trình triển khai.
Cần mở rộng phạm vi sang các nhóm yếu thế khác cần được bảo vệ trên không gian mạng
Góp ý về Chương III của dự thảo Luật An ninh mạng, trong đó có các quy định liên quan đến bảo vệ người sử dụng trên không gian mạng, các đại biểu đồng tình với việc dự thảo Luật lần này đã chú trọng đến bảo vệ trẻ em được quy định tại Điều 20 của dự thảo Luật về phòng, chống xâm hại trẻ em trên không gian mạng). Các đại biểu cho rằng, đây là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương và cần được ưu tiên. Tuy nhiên, nếu như chỉ dừng lại ở đối tượng là trẻ em là chưa đủ. Trong bối cảnh tội phạm mạng, lừa đảo công nghệ cao ngày càng tinh vi, thì nhiều nhóm đối tượng yếu thế khác cũng đang bị xâm hại nghiêm trọng trên môi trường mạng: “Thực tế cho thấy, người cao tuổi, người khuyết tật, phụ nữ, người dân tộc thiểu số, hay những người có hoàn cảnh khó khăn, hạn chế kỹ năng số đều là đối tượng dễ bị lợi dụng, lừa đảo hoặc bị xâm phạm dữ liệu cá nhân. Những hành vi như giả danh, chiếm đoạt tài khoản, lừa đảo qua mạng xã hội, qua ví điện tử hay tin nhắn… đang diễn ra rất phổ biến, gây thiệt hại cả về vật chất lẫn tinh thần”, các đại biểu nêu dẫn chứng. Các đại biểu cho rằng, việc đưa quy định này vào Luật An ninh mạng sẽ tăng tính thống nhất của hệ thống pháp luật, đảm bảo an ninh mạng gắn với an sinh xã hội và quyền con người.
Vì vậy, các đại biểu đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu bổ sung quy định rõ hơn trong Chương III, bên cạnh bảo vệ trẻ em, cần mở rộng phạm vi sang các nhóm yếu thế khác trong xã hội. Cụ thể, có thể quy định: “Nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân có trách nhiệm bảo vệ trẻ em và các nhóm đối tượng yếu thế khác như người cao tuổi, người khuyết tật, phụ nữ, người dân tộc thiểu số, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khỏi các hành vi xâm hại, lừa đảo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, hoặc xâm phạm dữ liệu cá nhân trên không gian mạng”. Bên cạnh đó, đề nghị bổ sung trách nhiệm của các doanh nghiệp cung cấp nền tảng mạng xã hội, cần có cơ chế nhận diện, cảnh báo và hỗ trợ kịp thời đối với người dùng thuộc nhóm yếu thế khi bị tấn công, xâm hại hoặc bị đe dọa trên mạng. Các đại biểu cho rằng, việc bổ sung nội dung này không chỉ giúp Luật bao quát, nhân văn và thực tiễn hơn, mà còn phù hợp với chủ trương “không ai bị bỏ lại phía sau” trong chuyển đổi số, bảo đảm an toàn cho mọi người dân trong không gian mạng.
Cũng tại Phiên họp, các đại biểu thảo luận về dự án Luật Bảo vệ bí mật nhà nước (sửa đổi); dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 10 luật có liên quan đến an ninh, trật tự./.