Tại phiên thảo luận Tổ 16 gồm Đoàn đại biểu Quốc hội (ĐBQH) các tỉnh, thành phố: Cao Bằng, Đà Nẵng, Tuyên Quang, các ý kiến phát biểu tại tổ đều nhất trí với sự cần thiết ban hành Luật Trí tuệ nhân tạo. Trong bối cảnh trí tuệ nhân tạo (AI) phát triển bùng nổ và tác động sâu rộng tới mọi lĩnh vực, Việt Nam đang đối mặt yêu cầu cấp bách phải xây dựng một hành lang pháp lý hoàn chỉnh cho công nghệ mới này. Hiện nay, các quy định về AI mới dừng ở mức nguyên tắc trong Luật Công nghiệp công nghệ số, chưa đủ bao quát để giải quyết hàng loạt vấn đề lớn như đạo đức AI, trách nhiệm pháp lý khi AI gây thiệt hại, bảo vệ dữ liệu cá nhân hay kiểm định các hệ thống có rủi ro cao. Khoảng trống trong quản lý dữ liệu – nguồn “nhiên liệu” cốt lõi cho AI – cùng nguy cơ lạm dụng deepfake, gian lận, xâm phạm an ninh mạng đặt ra thách thức nghiêm trọng cho trật tự xã hội và chủ quyền số quốc gia. Bên cạnh đó, Việt Nam cần khung pháp lý để để tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ, đồng thời giúp các sản phẩm công nghệ của Việt Nam có thể thâm nhập các thị trưởng lớn. Khoảng cách ngày càng lớn giữa tốc độ phát triển AI và tốc độ hoàn thiện pháp luật cho thấy việc ban hành Luật Trí tuệ nhân dân không còn là yêu cầu tương lai, mà là nhiệm vụ cấp thiết, nhằm bảo đảm an toàn, tạo động lực phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong kỷ nguyên số.
Tại buổi thảo luận đại biểu Bế Minh Đức, Tỉnh ủy viên, Phó Trưởng Đoàn ĐQBH chuyên trách tỉnh Cao Bằng cho rằng dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo là Luật mới, khó và đóng góp một số ý kiến rất xác đáng đối với dự thảo luật như sau:
Tại Điều 7 đề cập đến mức độ rủi ro của hệ thống trí tuệ nhân tạo với 4 khoản có những mâu thuẫn với lại một số khoản của Điều 11, khi khoản 1,2 Điều 7 đề cập đến hệ thống trí tuệ nhân tạo có có rủi ro cao, rủi ro không chấp nhận được là hệ thống có khả năng gây tổn hại nghiêm trọng, không thể khắc phục đối với quyền con người, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội…Điều 11 quy định hệ thống trí tuệ nhân tạo có rủi ro không chấp nhận được, tuy cùng nêu như một khái niệm nhưng nội dung lại có đề cập khác nhau. Đại biểu đề nghị dự thảo cần rà soát, điều chỉnh lại các quy định trên để có sự thống nhất. Đề nghị dự thảo luật bổ sung một điều luật quy định về các hành vi bị cấm, thay vì hiện nay đang quy định các nội dung cấm rải các ở các điều luật.
Về quỹ phát triển trí tuệ nhân tạo quốc gia quy định tại Điều 23, đại biểu cho rằng việc thành lập quỹ phát triển trí tuệ nhân tạo quốc gia là cần thiết để nhằm thúc đẩy hỗ trợ cái năng lực nghiên cứu cũng như ứng dụng AI. Tuy nhiên hiện nay chúng ta có Quỹ phát triển khoa công nghệ quốc gia, Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia với mục tiêu hỗ trợ nghiên cứu và đổi mới công nghệ trong đó có AI. Mặc dù phạm vi, đối tượng hỗ trợ của mỗi loại Quỹ có sự khác nhau nhưng đều tập trung ở lĩnh vực khoa học công nghệ, do vậy đại biểu đề nghị cần có sự rà soát xác định mối quan hệ giữa các loại quỹ để phát huy tính hiệu quả của các loại quỹ và tránh trùng về chức năng, phân tán nguồn lực và tăng gánh nặng ngân sách. Đại biểu đề xuất nên nghiên cứu gộp ba loài quỹ này giao một bộ chủ quản thể dồn nguồn lực thực hiện các cái chính sách hỗ trợ cho phát triển khoa công nghệ.
Đề nghị nghiên cứu bổ sung thêm nguyên tắc: “bên cạnh Luật trí tuệ nhân tạo, các luật chuyên ngành có liên quan cần có các quy định riêng về AI trong phạm vi từng lĩnh vực”, vì chúng ta đang bước vào kỷ nguyên số, trí tuệ nhân tạo đã và đang nghiên cứu ứng dụng rộng rãi trong mọi ngành, mọi lĩnh vực kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh, nên bổ sung những nguyên tắc trên là cần thiết, nhằm đảm bảo điều chỉnh toàn diện các vấn đề đặc thù và đáp ứng yêu cầu quản lý trong bối cảnh khoa học công nghệ đang phát triển nhanh chóng như hiện nay.